Flavoxat được chỉ định để giảm nhẹ triệu chứng khó tiểu, tiểu gấp, tiểu đêm, đau bàng quang vùng chậu, tiểu thường xuyên và không kiểm soát có thể gặp trong các bệnh viêm bàng quang, viêm tuyến tiền liệt, viêm niệu đạo, viêm niệu đạo - bàng quang, viêm niệu đạo.
Ngoài ra, thuốc còn được chỉ định để giảm co thắt niệu đạo - bàng quang do đặt cather, nội soi bàng quang hoặc có cather trong cơ thể; trước khi nội soi bàng quang hoặc đặt cather; di chứng của phẫu thuật can thiệp đường tiết niệu dưới.
DƯỢC LỰC HỌC
Mã ATC: G04BD02.
Nhóm dược lý: Thuốc chống co thắt đường tiết niệu.
Flavoxat HCl là một dẫn chất của flavon có tác dụng trực tiếp chống co thắt cơ trơn (giống như papaverin);, chủ yếu trên cơ trơn đường tiết niệu và làm tăng dung tích bàng quang ở bệnh nhân có biểu hiện co cứng bàng quang. Thuốc cũng có tác dụng chống co thắt cơ trơn ruột non, túi mật, tử cung và túi tinh. Thuốc gây giãn trực tiếp cơ trơn thông qua sự ức chế phosphodiesterase. Flavoxat HCl đặc biệt có hiệu quả trong điều trị sự co cứng cơ bàng quang, có thể là do thuốc có tác dụng đối với cơ mu bàng quang, nhờ đó làm tăng khả năng tiết niệu. Thời gian bắt đầu có tác dụng: 55 - 60 phút. Thuốc cũng có tác dụng kháng histamin, gây tê và giảm đau yếu. Với liều cao, có tác dụng kháng cholinergic yếu.
Flavoxat không ảnh hưởng đáng kể đến chức năng tim hoặc hô hấp.
DƯỢC ĐỘNG HỌC
Flavoxat được hấp thu dễ dàng qua đường tiêu hóa và được chuyển hóa nhanh chóng thành acid methyl flavon carboxylic (MFCA) có hoạt tính. Khoảng 50 - 60% của liều dùng được thải trừ qua nước tiểu trong vòng 24 giờ dưới dạng acid methyl flavon carboxylic. Chưa biết thuốc có thể loại bỏ bằng thẩm phân hay không.
Sau khi dùng liều đơn đường uống flavoxat 200 mg và 400 mg ở người tình nguyện, hầu như không phát hiện được flavoxat tự do trong huyết tương. Nồng độ đỉnh của MFCA đạt được ở 30 - 60 phút sau khi dùng liều 200 mg và ở khoảng 2 giờ sau khi dùng liều 400 mg. AUC của liều 400 mg khoảng gấp đôi so với AUC của liều 200 mg. Khoảng 50% liều được thải trừ dưới dạng MFCA trong vòng 12 giờ; hầu hết được thải trừ trong 6 giờ đầu.
Sau khi dùng liều lặp lại (200 mg, 3 lần/ ngày trong 7 ngày) sự bài tiết tích lũy của chất chuyển hóa ổn định ở 60% liều dùng ở ngày thứ 3 và duy trì hầu như không đổi sau một tuần.