Long nhãn là cùi của quả cây nhãn, cây cao 5-7m. Lá rườm rà, vỏ cây xù xì, sắc xám, nhiều cành, nhiều lá um tùm, xanh tươi luôn, không hay héo và rụng như lá các cây khác. Lá kép hình lông chim, mọc so le gồm 5 – 9 lá chét hẹp dài 7-20cm, rộng 2,5 – 5cm. Mùa xuân vào các tháng 2 – 3 – 4 có hoa màu vàng nhạt, mọc thành chùm ở đầu cành hay kẽ lá, đài 5 – 6 răng, tràng 5 – 6, nhị 6 – 10, bầu 2 – 3 ô. Quả có vỏ ngoài màu vàng xám, hầu như nhãn (chỉ có một ô của bầu phát triển thành quả, các ô kia tiêu giảm đi);. Hạt đen nhánh có áo hạt trắng bao bọc.
Mô tả Dược liệu
Vị thuốc Long nhãn là cùi quả nhãn, thường dày mỏng không đều, rách nứt theo thớ dọc, màu vàng cánh gián hay màu nâu, trong mờ, một mặt nhăn không phẳng, một mặt sáng bóng, có vân dọc nhỏ, thường thấy cùi kết dính (dài 1,5 cm, rộng 2-4 cm, dầy chừng 0,1 cm). Thể chất mềm nhuận, dẻo dai, sờ không dính tay. Mùi thơm nhẹ, vị ngọt đậm.
Bộ phận dùng: Vị thuốc là áo hạt (thường gọi là cùi) đã chế biến khô của quả cây Nhãn (Arillus Longanae).
Phân bố: Ở Việt Nam đâu cũng có nhãn, nhưng nhiều và quý nhất là nhãn Hưng Yên.
Thu hái:
Mùa hạ, thu, hái quả nhãn đã chín, cùi dày, ráo nước đem phơi nắng to hoặc sấy nhẹ ở nhiệt độ 40-50oC đến khi lắc quả có tiếng kêu lóc cóc, mang ra bóc vỏ, lấy cùi đã nhăn vàng, rồi sấy ở 50 – 60oC đến khi nắm mật không dính tay (độ ẩm dược liệu dưới 18%) thì bỏ ra, tách rời từng cùi một. Chú ý giữ vệ sinh khi bóc cùi và khi sấy, phơi. Chùm quả trước khi phơi hoặc sấy có thể nhúng nước sôi 1-2 phút.
Thành phần hoá học:
- Cùi nhãn khi tươi có 77,15% nước, độ tro 0,01%, chất béo 0,13%, protid 1,47%, hợp chất có nitơ tan trong nước 20,55%, đường sacarose 12,25%, vitamin A và B.
- Cùi khô (Long nhãn nhục) chứa 0,85% nước, chất tan trong nước 79,77%, chất không tan trong nước 19,39%, độ tro 3,36%. Trong phần tan trong nước có glucose 26,91%, sacarose 0,22%, acid taetric 1,26%. Chất có nitơ 6,309%.
- Hạt nhãn chứa tinh bột, saponin, chất béo và tanin.
- Trong chất béo có các acid xyclopropanoid và acid dihydrosterculic C19H36O2 khoảng 17,4% (C.A 1969, 71, 103424m). Hạt nhãn cạo bỏ lớp vỏ đen, thái mỏng tán bột rắc lên những vết thương chảy máu, hoặc trộn với dầu bôi lên nơi bị bỏng.
- Trong lá nhãn có quexitrin, quexitin, tanin (C.A. 1949, 43, 8611 8611c), ngoài ra còn có b -sitosterol, epifriendelanol C30H52O friedelin C30H50O và 16-hentriacontanol (C.A. 1972, 76, 11978v). Lá nhãn có vị nhạt, tính bình, có tác dụng chữa cảm mạo với liều 10 – 15g dưới dạng thuốc sắc.