Tác dụng phụ Venlafaxine
Thường gặp:
Các tác dụng ngoại ý thường gặp nhất liên quan đến việc sử dụng venlafaxin mà không thấy có tỉ lệ tương ứng trong số các bệnh nhân điều trị bằng placebo là các rối loạn hệ thần kinh bao gồm chóng mặt, khô miệng, mất ngủ, căng thẳng, ngủ gà; các rối loạn tiêu hóa bao gồm chán ăn, táo bón, buồn nôn; rối loạn xuất tinh/khoái cảm, ra mồ hôi và suy nhược.
Mức độ thường xuyên của các tác dụng phụ này có liên quan tới liều dùng. Các tác dụng phụ nói chung giảm về mức độ và tần số khi dùng lâu dài.
Các yếu tố làm ngừng điều trị:
19% trong số 2181 bệnh nhân dùng venlafaxin trong các nghiên cứu lâm sàng phải ngừng điều trị sớm do tác dụng phụ, so với 6% bệnh nhân dùng placebo, và 22% bệnh nhân dùng thuốc so sánh. Các hiện tượng làm phải ngừng điều trị hay gặp nhất ở nhóm dùng venlafaxin gồm có các rối loạn về thần kinh, chủ yếu là ngủ gà (4%), mất ngủ (4%), chóng mặt (3%), căng thẳng (3%), khô miệng (2%), và lo lắng (2%), trầm cảm (1%); các rối loạn về tiêu hóa, chủ yếu là buồn nôn (6%), nôn (1%) chán ăn (1%), táo bón (1%); các rối loạn của toàn cơ thể, chủ yếu là đau đầu (3%) và suy nhược (2%); rối loạn về da, chủ yếu là ra mồ hôi (2%); và điều tiết bất thường (1%); rối loạn về đường niệu, gồm mất khả năng (2% số nam giới) và rối loạn xuất tinh/khoái cảm (1%).
Các hiện tượng quan sát được trong quá trình đánh giá venlafaxin trên lâm sàng:
2181 bệnh nhân đã được dùng venlafaxin trong quá trình thử nghiệm lâm sàng pha II và III. Các triệu chứng không lường trước gắn với việc sử dụng này được các nhà nghiên cứu lâm sàng ghi lại bằng các từ mô tả do họ tự chọn. Như vậy không thể đánh giá một cách có ý nghĩa về tỷ lệ các tác dụng phụ xảy ra đối với từng người mà không phân nhóm trước các loại tác dụng không mong muốn để giới hạn (tức là giảm) số lượng các loại triệu chứng đã tiêu chuẩn hóa.
Trong các bảng dưới đây, một hệ danh pháp tiêu chuẩn (Costart) đã được dùng để phân loại các tác dụng phụ ghi được. Như vậy tần số xuất hiện biểu thị tỷ lệ một loại triệu chứng xuất hiện ít nhất là một lần trong khi đang dùng venlafaxin của một người. Tất cả các triệu chứng được ghi lại đều được sử dụng trừ khi các nhà nghiên cứu cho rằng không liên quan đến thuốc. Nếu thuật ngữ Costart dùng cho một triệu chứng quá chung chung đến nỗi không mang lại thông tin gì thì sẽ được thay thế bằng một thuật ngữ mang nhiều thông tin hơn. Cần phải nhấn mạnh rằng mặc dù các triệu chứng được ghi lại chỉ xảy ra trong quá trình điều trị bằng venlafaxin, nhưng chúng không nhất thiết là do kết quả của điều trị.
Các triệu chứng được tiếp tục phân loại thành các loại theo hệ thống cơ thể và được số hóa theo thứ tự tần số giảm dần với các định nghĩa sau: Loại 1 là các tác dụng phụ xảy ra trong một hoặc nhiều lần với ít nhất 1/100 bệnh nhân; Loại 2 là các tác dụng phụ xảy ra với từ 1/1000 đến 1/100 bệnh nhân; Loại 3 là các tác dụng phụ xảy ra với <1/1000 bệnh nhân.
* Tỷ lệ ≥ 3%
Toàn cơ thể: Loại 1: Suy nhược*, ớn lạnh, đau đầu*, đau, đau bụng*, đau lưng, đau ngực; Loại 2: Chướng bụng, phù mặt, phù nói chung, sốt, nhiễm trùng, khó chịu, cứng cổ, đau ngực dưới xương ức, đau cổ, kết quả xét nghiệm không bình thường, phản ứng nhạy cảm ánh sáng, hội chứng cúm; Loại 3: Phản ứng dị ứng, nhiễm nấm Candida, ung thư, thuốc không có tác dụng, dùng quá liều có chủ định, đau hông, hội chứng ngừng thuốc, phản ứng trầm trọng, hôi miệng, cơ thể có mùi, gây hậu quả khó chịu, bị thương bất ngờ, bị thương có chủ định.
Hệ tim mạch: Loại 1: Tăng huyết áp*, hạ huyết áp tư thế, đánh trống ngực, nhịp tim nhanh, giãn mạch; Loại 2: Ðiện tim không bình thường, ngoại tâm thu thất, huyết áp thấp, đau nửa đầu, ngất, rối loạn mạch ngoại vi; Loại 3: loạn nhịp, tắc nghẽn tâm nhĩ thất độ 1, nhịp tim chậm xoang, nghẽn nhánh bó, ngoại tâm thu, xuất huyết, viêm tĩnh mạch, giảm ST, giãn tĩnh mạch.
Hệ tiêu hóa: Loại 1: chán ăn*, tăng cảm giác ngon miệng*, táo bón*, ỉa chảy*, khó tiêu*, ợ hơi, đầy hơi*, buồn nôn*, nôn*; Loại 2: viêm đại tràng, khó nuốt, phù lưỡi, viêm thực quản, viêm dạ dày, viêm lợi, viêm lưỡi, đại tiện máu đen, viêm miệng, rối loạn về răng, loét miệng, rối loạn trực tràng, loét dạ dày; Loại 3: áp xe quanh răng, viêm môi, lưỡi mất màu, khô miệng, viêm dạ dày ruột, rối loạn dạ dày ruột, xuất huyết lợi, xuất huyết trực tràng, nôn ra máu, tổn thương gan, kết quả xét nghiệm chức năng gan không bình thường, tăng tiết nước bọt, viêm loét miệng, phân không bình thường.
Hệ nội tiết: Loại 3: tăng hoạt động tuyến yên.
Hệ máu và bạch huyết: Loại 1: vết bầm máu: Loại 2: thiếu máu, tăng bạch cầu, giảm tiểu cầu, tăng tiểu cầu; Loại 3: thiếu máu nhược sắc, tăng bạch cầu ưa base, xanh tím, bệnh hạch bạch huyết, tăng bạch cầu, tiểu cầu không bình thường, tế bào bạch huyết không bình thường.
Dinh dưỡng và chuyển hóa: Loại 1: tăng cân*, giảm cân; Loại 2: phù, phù ngoại vi, glucoza niệu, tăng cholesterol máu, tăng đường huyết, giảm kali máu, tăng phosphataza kiềm, tăng aspartat aminotransferaza (AST), khát; Loại 3: bilirubin máu, tăng nitơ urê trong máu, tăng creatinin, đái tháo đường, tăng kali máu, tăng phosphat máu, tăng acid uric huyết, hạ đường huyết, hạ phosphat máu, giảm lượng protein trong máu, tăng alanin aminotransferaza (ATL), không dung nạp rượu.
Cơ xương: Loại 1: đau cơ; Loại 2: đau khớp, nhược cơ; Loại 3: co cứng gân, rối loạn khớp, viêm bao gân, co giật cơ.
Hệ thần kinh trung ương: Loại 1: kích động*, mất trí nhớ, lo lắng*, nhầm lẫn, mất nhân cách, trầm cảm, hoa mắt chóng mặt*, giấc mơ bất thường*, dễ cảm động, tăng trương lực, giảm cảm giác, mất ngủ*, giảm tình dục, căng thẳng*, dị cảm*, ngủ gà*, suy nghĩ bất thường, run*, cứng hàm, khô miệng*, bí tiểu tiện; Loại 2: lãnh đạm, mất điều hòa, kích thích thần kinh trung ương, mất phối hợp, trạng thái phởn phơ, ảo giác, thái độ thù địch, tăng cảm, tăng vận động, giảm trương lực, tăng tình dục, phản ứng hưng cảm, giật rung cơ, loạn thần kinh, phản ứng paranoid, dị cảm quanh miệng, loạn tâm thần, rối loạn ngôn ngữ, co giật cơ, chóng mặt, rối loạn giấc ngủ; Loại 3: đứng ngồi không yên, mất vận động, mất ngôn ngữ, co giật, sa sút trí tuệ, song thị, phụ thuộc thuốc, hội chứng ngoại tháp, giảm vận động, rung giật nhãn cầu, rối loạn nhân cách, tăng phản xạ, trạng thái ngơ ngẩn.
Hệ hô hấp: Loại 1: viêm hầu họng, viêm mũi, ngáp; Loại 2: hen, viêm phế quản, tăng ho, nấc, chảy máu cam, co thắt thanh quản, viêm xoang, biến đổi giọng; Loại 3: giảm oxi không khí thở vào, viêm thanh quản, rối loạn phổi.
Da và phần phụ: Loại 1: ra mồ hôi*, nổi ban*, ngứa; Loại 2: viêm nang lông, rụng lông tóc, herpes simplex, rối loạn móng, khô da, mày đay, rối loạn tóc; Loại 3: viêm da tiếp xúc, viêm da tróc vẩy, eczema, bạc tóc, rậm lông, ban dát sần, ban mụn nước, rối loạn da.
Cảm giác đặc biệt: Loại 1: điều tiết bất thường*, giãn đồng tử, thay đổi vị giác, ù tai, thị giác bất thường; Loại 2: viêm kết mạc, song thị, rối loạn thính giác, lồi mắt, rối loạn thị giác, viêm kết giác mạc, đau tai, đau mắt, loạn khứu giác, sợ ánh sáng, rối loạn phản xạ, mất vị giác, mất tầm nhìn, chảy nước mắt; Loại 3: giảm thị lực, đục thủy tinh thể, loạn sắc thị, loét giác mạc, vùng đục giác mạc, glôcôm, xuất huyết mắt, tăng thính lực, co đồng tử, phù gai thị, rối loạn đồng tử, rối loạn võng mạc, rối loạn mạch võng mạc, viêm màng mạch nho, rối loạn thủy tinh thể, khô mắt.
Niệu sinh dục: Loại 1: xuất tinh/cực khoái bất bình thường*, liệt dương*, tiểu tiện nhiều, mất khoái cảm; Loại 2: albumin niệu, đau kinh, khó tiểu tiện, xuất huyết âm đạo, tiểu tiện ra máu, nhiễm trùng đường tiết niệu, đa kinh, rối loạn kinh nguyệt, tiểu tiện đêm, đau vú, tiểu tiện không bình thường, rối loạn đường tiết niệu, tiểu gấp; Loại 3: sẩy thai, mất kinh, căng vú, to vú, tinh thể can-xi niệu, viêm bàng quang, thiểu kinh, tiểu tiện không kềm chế được, tiết sữa nữ, khí hư, ung thư vú, đa niệu, mủ niệu, rối loạn xét nghiệm, viêm âm đạo, đau bàng quang, rối loạn niệu sinh dục.
Thận trọng lúc dùng Venlafaxine
CHÚ Ý ÐỀ PHÒNG
Có thể tương tác với các chất ức chế monoamin oxidase (IMAO).
Các tác dụng phụ, đôi khi nặng, đã được ghi nhận khi bắt đầu điều trị venlafaxin ngay sau khi ngừng dùng một thuốc IMAO và khi bắt đầu dùng một thuốc IMAO ngay sau khi ngừng dùng venlafaxin. Các phản ứng gồm có run rẩy, múa giật, toát mồ hôi, buồn nôn, nôn, nóng đỏ bừng, chóng mặt, sốt cao với các đặc điểm giống như hội chứng thần kinh ác tính, co giật và chết. Các tương tác thuốc dẫn đến các phản ứng nặng, đôi khi chết người này đã được ghi nhận khi dùng đồng thời hoặc liên tiếp các thuốc IMAO và các thuốc chống trầm cảm khác có đặc tính dược lý giống như Venlafaxine, không dùng Venlafaxine phối hợp với một thuốc IMAO hoặc trong vòng 14 ngày sau khi dừng điều trị bằng IMAO. Chỉ được dùng IMAO sau khi ngừng Venlafaxine ít nhất 7 ngày. Tăng thân nhiệt, co cứng, múa giật, không ổn định thần kinh tự động, thay đổi trạng thái tinh thần bao gồm kích động quá mức dẫn tới mê sảng và hôn mê, và các triệu chứng giống như hội chứng thần kinh ác tính đã được ghi nhận khi dùng đồng thời các thuốc ức chế tái hấp thu serotonin nhanh và chọn lọc với IMAO. Tăng thân nhiệt nặng và động kinh, đôi khi tử vong, đã được báo cáo khi dùng đồng thời thuốc chống trầm cảm 3 vòng và IMAO.
THẬN TRỌNG LÚC DÙNG
Cần tính đến nguy cơ tự tử ở tất cả các bệnh nhân trầm cảm. Chỉ kê venlafaxin với lượng nhỏ để kiểm soát tốt bệnh nhân và giảm khả năng bị quá liều.
Ðặc tính an toàn của venlafaxin được xác định dựa trên tổng số 2181 bệnh nhân đã được nghiên cứu trong các thực nghiệm lâm sàng pha II và III, và các dữ liệu an toàn tạm thời thu được từ 77 bệnh nhân nhiều tuổi khác trong một cuộc đánh giá mở về độ an toàn và khả năng dung nạp lâm sàng khi điều trị bằng venlafaxin lâu dài cho người có tuổi bị trầm cảm.
Tổng số 2258 bệnh nhân đã được phân tích trong các nghiên cứu kỹ lưỡng. 4 trong số 2258 bệnh nhân trên toàn thế giới được nghiên cứu trong khi đang nghiên cứu thuốc venlafaxin bị co giật (hoặc có hiện tượng được miêu tả là có thể bị cơn động kinh), tỉ lệ 0,2%. Cả 4 bệnh nhân đều hồi phục. Mặc dù tỉ lệ này thấp, nhưng vẫn cần phải thận trọng khi dùng thuốc chống trầm cảm cho người có tiền sử động kinh.
Trong các thử nghiệm lâm sàng, 4% trong số 2181 bệnh nhân dùng venlafaxin bị phát ban, 0,7% bị mày đay. Tuy nhiên chỉ có 15 bệnh nhân (0,7%) phải dừng điều trị vì các tác dụng phụ này. Ban thường là dát sần và hiếm khi kèm với tăng đáng kể transaminase hay có dấu hiệu viêm mạch. Ban/đám ban được đánh giá là nặng trên 11 bệnh nhân dùng venlafaxin (0,5%) và trên 0,5% bệnh nhân dùng thuốc so sánh. Bệnh nhân được khuyên thông báo với bác sĩ khi thấy xuất hiện ban, đám ban, hoặc triệu chứng dị ứng có liên quan.
Trong các thực nghiệm lâm sàng, điều trị bằng venlafaxin gây tăng huyết áp ở một số bệnh nhân. Trung bình huyết áp tâm trương ở tư thế nằm tăng khoảng 2mmHg, so với mức tăng lớn hơn một chút (khoảng 3,5mmHg) ở bệnh nhân điều trị bằng thuốc chống trầm cảm 3 vòng, và giảm khoảng 2mmHg ở bệnh nhân dùng viên placebo. 3% trong số 2181 người đã điều trị bằng venlafaxin bị tăng huyết áp đáng kể trên lâm sàng. Mức độ tăng tương ứng với liều dùng. Nói chung, trong một nghiên cứu ngắn hạn với các liều khác nhau, bệnh nhân điều trị ít hơn hoặc bằng 200mg/ngày tăng ít, trong liều cao (300 đến 375mg/ngày) gây tăng huyết áp tâm trương tư thế nằm trung bình khoảng 4mmgHg ở tuần thứ 4, và 7mmgHg ở tuần thứ 6. Việc dùng các thuốc hạ huyết áp trước khi điều trị dường như không làm tăng huyết áp hơn trong quá trình điều trị bằng venlafaxin. Nên kiểm tra huyết áp thường xuyên cho những bệnh nhân điều trị với liều cao hơn 200mg/ngày.
Tác dụng hưng cảm/hưng cảm nhẹ được ghi nhận ở một tỉ lệ nhỏ bệnh nhân bị bệnh nặng được điều trị bằng các thuốc chống trầm cảm khác trên thị trường. Trong các thực nghiệm lâm sàng, hiện tượng hưng cảm và hưng cảm nhẹ xảy ra ở 9 bệnh nhân (0,4%) được điều trị bằng venlafaxin.
Thay đổi thể trọng, cả tăng và giảm, không biểu hiện thành một đặc điểm quan trọng trên lâm sàng khi điều trị bằng venlafaxin, tăng hoặc giảm trọng lượng có ý nghĩa lâm sàng chỉ nhận thấy trên 1% số bệnh nhân điều trị bằng venlafaxin. Ở một số bệnh nhân điều trị bằng venlafaxin đã thấy có sự giảm khối lượng phụ thuộc liều (trung bình giảm dưới 1kg) trong vài tháng đầu điều trị. Sau 9 tháng, khối lượng trung bình bắt đầu tăng nhẹ nhưng đáng kể, một ảnh hưởng thường thấy khi điều trị bằng các thuốc chống trầm cảm loại 3 vòng. Sự giảm khối lượng đáng kể (>7kg) đã thấy ở 6 (0,3%) trong số 2181 bệnh nhân, so với không một bệnh nhân dùng viên placebo nào bị, và 0,2% bệnh nhân điều trị bằng một thuốc chống trầm cảm so sánh.
Các nghiên cứu lâm sàng đã cho thấy không có biểu hiện tìm kiếm thuốc, không có tăng dung nạp, không bị tăng liều theo thời gian trong những người dùng venlafaxin. Tuy nhiên dựa trên cơ sở các thực nghiệm trước khi đưa ra thị trường không thể dự đoán trước một thuốc tác dụng trên thần kinh trung ương sẽ bị lạm dụng hoặc bị dùng với mục đích khác hay không khi đưa ra thị trường. Vì vậy thầy thuốc phải đánh giá bệnh nhân một cách cẩn thận về tiền sử lạm dụng thuốc và phải theo dõi họ thật sát xem có các biểu hiện quá liều hay lạm dụng venlafaxin hay không (ví dụ như tăng dung nạp, tăng liều, nghiện).
Thực nghiệm venlafaxin trên những bệnh nhân mắc thêm bệnh hệ thống còn chưa đầy đủ. Nên chú ý khi dùng venlafaxin cho những bệnh nhân bị bệnh hay bị các chứng khác có thể ảnh hưởng đến đáp ứng động học máu hay chuyển hóa.
Venlafaxin còn chưa được thử nghiệm trên những bệnh nhân có tiền sử gần đây về nhồi máu cơ tim hoặc bệnh về tim chưa ổn định. Những bệnh nhân này bị loại khỏi các nghiên cứu lâm sàng trong quá trình thử nghiệm sản phẩm. Ðiện tâm đồ có ý nghĩa lâm sàng thu được trên 0,9 % bệnh nhân điều trị bằng venlafaxin so với 0,2% ở nhóm placebo và 1,4% ở nhóm chứng và không có bất thường nào xảy ra với tỉ lệ từ 1% trở lên ở tất cả các nhóm. Không thấy loạn nhịp nặng ở bệnh nhân điều trị bằng venlafaxin, và các giá trị PR, QRS và QTc trung bình không bị kéo dài đáng kể. Nhịp tim trung bình tăng khoảng 4 nhịp/phút trong quá trình điều trị, ít hơn sự tăng do thuốc đối chứng gây ra (loại thuốc chống trầm cảm 3 vòng).
Ở bệnh nhân suy thận vừa và nặng hoặc xơ gan, hệ số thanh thải của venlafaxin và chất chuyển hóa của nó giảm đi nên kéo dài thời gian bán hủy của chúng. Có thể cần dùng ở liều thấp hơn hoặc dùng cách quãng. Cũng như với các thuốc chống trầm cảm khác, cần thận trọng khi dùng venlafaxin cho những bệnh nhân này.
Các nghiên cứu lâm sàng đã được tiến hành nhằm kiểm tra hiệu quả của venlafaxin trên hành vi của người khỏe. Các kết quả cho thấy không có sự rối loạn đáng kể về tâm thần vận động, hành vi hoặc khả năng phối hợp hành vi. Tuy nhiên, thuốc tâm thần nào cũng làm suy yếu khả năng điều chỉnh suy nghĩ hoặc kỹ năng vận động nên bệnh nhân cần thận trọng khi sử dụng máy móc, gồm cả việc lái xe, cho tới khi thấy rằng thuốc điều trị không ảnh hưởng có hại đến họ.
Các nghiên cứu lâm sàng về venlafaxin còn chưa được chỉ định để đánh giá các tác dụng sau khi ngừng thuốc vì quy trình điều trị yêu cầu ngừng dùng thuốc dần dần. Tuy nhiên, phân tích trên các bệnh nhân đã ngừng điều trị đột ngột ở liều ≥150mg/ngày cho thấy có một dấu hiệu nhỏ về triệu chứng ngừng thuốc khi ngừng đột ngột venlafaxin nhưng không tìm thấy xu hướng hội chứng ngừng thuốc rõ ràng. Trong nhóm 2181 bệnh nhân được điều trị bằng venlafaxin, chỉ có 6 người (0,3%) được coi là có triệu chứng đáng kể có thể là do ngừng thuốc hoặc giảm liều. Hội chứng bao gồm mệt mỏi, hoa mắt, chóng mặt, ảnh hưởng đến khả năng lao động, váng đầu, rối loạn giấc ngủ, buồn nôn, đi ngoài, khó cân bằng, khó thở và mờ mắt, ra mồ hôi, và ở một bệnh nhân có rối loạn hưng cảm. Cả 6 bệnh nhân đều được dùng với liều từ 150mg trở lên. Hiệu ứng dùng thuốc đã được biết cũng xảy ra với các thuốc chống trầm cảm loại 3 vòng. Cho tới khi có thêm thông tin khác, khuyên nên giảm dần liều venlafaxin và theo dõi bệnh nhân.
Ðối với người già, venlafaxin tỏ ra không có vấn đề gì đặc biệt về mặt an toàn. Venlafaxin đã được nghiên cứu trên tổng số 229 bệnh nhân từ 65 tuổi trở lên gồm có 152 bệnh nhân (7%) nằm trong nhóm 2181 người thuộc pha II/III, và 77 người trong một đánh giá mở về độ an toàn và khả năng dung nạp của việc điều trị venlafaxin lâu dài cho người già bị trầm cảm. Cả 229 bệnh nhân nhiều tuổi này đều được phân tích để xác định đặc điểm an toàn của cả nhóm. Các kết quả thu được cũng tương tự như kết quả thu được trên toàn bộ 2181 bệnh nhân.
Dùng cho trẻ em: An toàn và hiệu quả của thuốc trên trẻ dưới 18 tuổi còn chưa được khẳng định do đó không nên dùng.
LÚC CÓ THAI VÀ LÚC NUÔI CON BÚ
Lúc có thai:
Trong một nghiên cứu về khả năng gây quái thai trên chuột, người ta dùng venlafaxin với liều 80mg/kg/ngày (gấp khoảng 11 lần liều tối đa dùng cho người). Ðộc tính trên bào thai ở mức độ làm chậm phát triển được phát hiện ở liều 80mg/kg/ngày; điều này có thể liên quan tới độc tính đối với mẹ ở liều trên. Khả năng sống của bào thai và sự phát triển hình thái không bị ảnh hưởng bất cứ liều nào. Trong một nghiên cứu độc tính khác, thỏ được dùng venlafaxin với các liều lên tới 90mg/kg/ngày (gấp khoảng 12 lần liều tối đa dùng cho người). Ðộc tính trên bào thai thể hiện ở sự tiêu và mất thai tăng nhẹ ở liều 90mg/kg/ngày; điều này có thể liên quan tới độc tính đối với con mẹ. Không thấy có tác dụng gây quái thai liên quan tới venlafaxin ở bất kỳ loài nào và ở bất kỳ liều nào.
Trong số phụ nữ dùng venlafaxin trong các nghiên cứu lâm sàng có 12 người đang có thai, tương ứng với tỉ lệ 1,3% so với 927 phụ nữ từ 40 tuổi trở xuống (Không có phụ nữ có thai nào trên 40 tuổi). Có một người bị sẩy thai 2 lần liên tiếp nhưng do đã có tiền sử sẩy thai liên tục nên không liên quan tới việc dùng thuốc. Cũng xảy ra việc có thai lạc chỗ ở một bệnh nhân có tiền sử 2 lần sẩy thai liên tục. Có 3 bệnh nhân đẻ sớm và một bệnh nhân khác bị trụy thai ngay sau khi phát hiện mang thai. 5 người đẻ đủ tháng và những đứa trẻ đều khỏe mạnh, cân nặng bình thường. Thời gian dùng venlafaxin của những người này vào khoảng từ 10 đến 60 ngày. Thông số Apga bình thường thu được ở 4 trẻ sơ sinh dùng venlafaxin đã được kiểm tra. Dựa trên những dữ liệu hạn chế thu được, dùng venlafaxin trong 3 tháng đầu thời kỳ có thai không gây bất thường gì cho cả kỳ, củng cố cho những quan sát tiền lâm sàng đã nói ở trên. Tuy nhiên còn chưa đủ các nghiên cứu đầy đủ và được kiểm soát tốt trên phụ nữ có thai. Không nên dùng venlafaxin cho phụ nữ có thai trừ khi ích lợi là lớn hơn so với những nguy cơ có thể xảy ra. Khuyên bệnh nhân nên thông báo với thầy thuốc nếu họ đang có thai hoặc dự định có thai trong thời gian điều trị.
Lúc nuôi con bú:
Còn chưa rõ venlafaxin và các chất chuyển hóa của nó có bài tiết qua sữa hay không. Vì thế không dùng venlafaxin cho người đang cho con bú.