Ðiều trị & phòng ngừa các rối loạn nhịp tim tái diễn có kèm rối loạn huyết động & rối loạn nhịp thất nguy kịch (ngoại tâm thu thất nghiêm trọng, rung nhĩ, cuồng nhĩ, hội chứng Wolff-Parkinson-White).
Bệnh nhịp xoang chậm, rối loạn dẫn truyền (thiểu năng nút xoang nhĩ hoặc blốc nhĩ thất độ II và III). Có thai. Mẫn cảm với thuốc.
Khởi đầu: 4 tới 6 viên/ngày, dùng trong 5-7 ngày. Duy trì từ 1-2 viên/ngày, nhưng chỉ dùng 5 ngày/tuần còn 2 ngày còn lại nghỉ không dùng thuốc.
Ðôi khi: chậm nhịp xoang, rối loạn tạm thời dẫn truyền tâm nhĩ, chóng mặt, nhức đầu, ù tai, cảm giác kiến bò, mất thăng bằng, mẫn cảm với ánh nắng, ngứa, đỏ da, nổi mẩn, rối loạn ở đường tiêu hoá, gan, tuyến giáp.
Làm tăng nồng độ digitalis, tăng tác dụng thuốc chống đông dạng warfarin, thuốc chống loạn nhịp khác (procainamid, quinidin, disopyramid, mexiletin, phenytoin), verapamil, diltiazem.
Tác dụng phụ Amiodarone
Biểu hiện trên mắt: Vi tích tụ giác mạc, phát hiện gần đây ở người lớn, thường ở vị trí vùng dưới đồng tử và không phải chống chỉ định trong điều trị. Một số rất ít trường hợp, có thể kết hợp với cảm giác quầng sáng màu chói mắt hay sương mù.
Chất tích tụ ở giác mạc bao gồm các chất lipid phức hợp có thể hồi phục sau khi ngưng điều trị. Một số ít trường hợp bị bệnh thần kinh mắt (viêm thần kinh mắt) nhìn mờ và giảm thị lực và phù mí mắt đã được báo cáo. Ðiều này có thể dẫn đến giảm ít nhiều thị lực. Mối liên quan với amiodarone gần đây chưa được thiết lập. Tuy nhiên, nên tạm ngưng điều trị nếu không tìm ra các nguyên nhân khác.
Biểu hiện ở da: Nhạy cảm với ánh sáng. Khuyên các bệnh nhân không nên tiếp xúc với ánh nắng (nói chung là tia tử ngoại) trong lúc điều trị.
Các trường hợp bị hồng ban đã được báo các lúc xạ trị.
Các trường hợp nổi mẩn da, thường tương đối không đặc hiệu, và một số rất ít trường hợp bị viêm da tróc vảy đã được báo cáo, tuy sự liên quan với thuốc chưa được thiết lập rõ.
Tình trạng da bị sạm màu do sắc tố rất ít khi xảy ra với liều cao hàng ngày khi dùng lâu dài; sắc tố biến mất chậm sau khi ngưng điều trị (10-24 tháng).
Biểu hiện ở tuyến giáp:
- Không có dấu hiệu lâm sàng nào của xáo trộn chức năng tuyến giáp. Sự "tách biệt" chỉ số hormon tuyến giáp trong máu (tăng T4, còn T3 bình thường hay giảm nhẹ) không chứng tỏ cần ngưng điều trị.
- Nhược giáp dựa trên các hình ảnh điển hình: tăng cân, thẩn thờ và buồn ngủ; tăng rõ TSH là biểu hiện cho chẩn đoán. Tình trạng tuyến giáp tốt trở lại từ từ sau một thời gian ngưng điều trị từ 1 đến 3 tháng. Không cần phải ngưng điều trị amiodarone, có thể kết hợp tiếp theo một liệu pháp đối kháng thay thế bằng L-thyroxin, dùng TSH như là hướng dẫn cho liều lượng dùng.
- Cường giáp thường bị bỏ qua nhiều hơn: với ít triệu chứng (sụt cân nhẹ không rõ nguyên nhân, giảm hiệu quả thuốc chống đau thắt ngực và/hoặc thuốc chống loạn nhịp); Các thể tâm thần ở người già thậm chí nhiễm độc tuyến giáp. Sự chẩn đoán có thể được xác định bởi sự giảm TSH siêu nhạy.
Ðiều cơ bản là ngưng amiodarone: dấu hiệu lâm sàng sẽ hồi phục trong 3-4 tuần. Các trường hợp nặng, có thể gây tử vong cho bệnh nhân, cần phải cấp cứu xử lý thích hợp ở bệnh viện. Nếu nhiễm độc tuyến giáp xảy ra do dùng thuốc hay vì tác động của nó trên tình trạng cơ tim dễ tổn thương, phải dùng liệu pháp corticosteroid liều cao (1mg/kg) trong một thời gian đủ dài (3 tháng) vì hiệu quả các thuốc kháng giáp tổng hợp không bền.
Nhiều trường hợp cường giáp đã được báo cáo nhiều tháng sau khi ngưng amiodarone.
Biểu hiện trên phổi:
Các trường hợp viêm phổi kẽ hay phế nang lan tỏa hay bệnh phế quản phổi tắc nghẽn đã được báo cáo.
Nếu bị khó thở gắng sức, đơn độc hay kết hợp với thay đổi tình trạng toàn thân (mệt mỏi, sụt cân, sốt cao), cần chụp X quang phổi kiểm tra và nếu có thể nên ngừng thuốc. Các thể viêm này có thể dẫn đến xơ phổi.
Các vấn đề trên có thể giải quyết được nếu ngưng amiodarone sớm, dùng hoặc không dùng liệu pháp corticosteroid. Các dấu hiệu lâm sàng thường biến mất trong 3-4 tuần, sự cải thiện ảnh X quang và chức năng xảy ra chậm hơn (vài tháng). Một số ít trường hợp tràn dịch màng phổi, thường liên kết với viêm phổi kẽ và một số trường hợp co thắt phế quản cũng đã được báo. Một số ít trường hợp hội chứng suy hô hấp cấp cũng được báo cáo, thường là sau khi phẫu thuật (có thể là do tương tác với oxygen liều cao đã được dùng lúc gây mê).
Biểu hiện thần kinh: Thường hiếm.
- Bệnh lý thần kinh vận động và cảm giác ngoại biên và/hoặc bệnh lý cơ, thường hồi phục sau khi ngưng điều trị.
- Một số vấn đề khác đã được báo cáo như: rung ngoại tháp, mất điều hòa tiểu não, tăng áp lực nội sọ lành tính, ác mộng.
Biểu hiện ở gan:
Một số trường hợp bệnh gan đã được báo cáo, có thể được chẩn đoán qua tăng mức transaminase trong máu.
- Tăng transaminase đơn thuần và thường nhẹ (1,5-3 lần hơn giới hạn bình thường) và sẽ khỏi sau khi giảm liều, hay thậm chí tự khỏi.
- Rất hiếm bệnh gan cấp (vài trường hợp riêng lẻ) tăng nồng độ transaminase trong máu và/hoặc vàng da, đôi khi gây tử vong và cần phải ngưng thuốc.
- Một ít trường hợp bệnh gan mãn khi điều trị kéo dài, mô học giống với viêm gan do rượu. Các tính chất nhẹ lâm sàng và cận lâm sàng (gan to, tăng transaminase giữa 1,5-5 lần bình thường) làm cần theo dõi đều đặn chức năng gan. Tăng transaminase máu dù ít, hình thành sau khi điều trị hơn 6 tháng nên đề nghị chẩn đoán bệnh gan mãn tính. Các bất thường về lâm sàng và cận lâm sàng thường được giải quyết sau khi ngưng thuốc. Một số ít trường hợp tổn thương không hồi phục đã được báo cáo.
Các hiệu ứng trên tim:
- Nhịp tim chậm, thường trung bình và phụ thuộc liều. Một số trường hợp (rối loạn chức năng nút xoang, người già), nhịp tim chậm nặng và ít khi có ngưng xoang được báo cáo.
- Hiếm: rối loạn dẫn truyền (bloc xoang nhĩ) nhiều mức độ của bloc nhĩ thất.
- Tác dụng gây loạn nhịp thường nhẹ và ít hơn các thuốc chống loạn nhịp khác. Thường xảy ra khi điều trị kết hợp hay rối loạn điện giải.
Các hiệu ứng khác:
- Các vấn đề tiêu hóa lành tính (buồn nôn, nôn mửa, thay đổi khẩu vị) thường xảy ra ở liều tấn công cao và sẽ khỏi khi giảm liều. Một số ít trường hợp bị viêm mào tinh. Mối liên quan đến thuốc chưa được xác lập. Một số ít trường hợp rụng tóc được báo cáo.
Một số ít trường hợp các biệt của các biểu hiện được nhận thấy ở bối cảnh tăng mẫn cảm: viêm mạch máu, rối loạn chứng năng thận do tăng nhẹ creatinin, giảm tiểu cầu.